Một số vấn đề trong công tác quản lý nhà nước về thông tin trên Internet

Một số vấn đề trong công tác quản lý nhà nước về thông tin trên Internet

Năm 2011, báo chí cả nước đã hoàn thành tốt nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền nhằm định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được của hoạt động báo chí, nổi bật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về báo chí năm vừa qua là sự phát triển của loại hình báo chí điện tử và thông tin trên mạng in-tơ-nét, được gọi là truyền thông xã hội, với những vấn đề đặt ra cần được quan tâm và giải quyết.

Sự phát triển của báo chí điện tử và truyền thông xã hội


Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến hết năm 2011, Việt Nam có hơn 30 triệu người sử dụng in-tơ-nét, tương đương tỷ lệ 35% dân số, và là một trong những quốc gia phát triển in-tơ-nét nhanh nhất trên thế giới. Cùng với đó, thông tin điện tử trên mạng bao gồm báo chí điện tử và truyền thông xã hội cũng có sự phát triển rất nhanh chóng.

Tính đến cuối năm 2011, cả nước có 56 báo, tạp chí điện tử, trong đó có 12 báo, tạp chí thuần nhất là báo chí điện tử, 270 trang tin điện tử của các báo, tạp chí, đài phát thanh - truyền hình. Về truyền thông xã hội, có hơn 1.000 trang tin điện tử tổng hợp đã được cấp phép và 172 mạng xã hội đã đăng ký hoạt động. Bên cạnh đó, một số lượng rất lớn các blog cá nhân cũng góp phần đáng kể phát triển truyền thông xã hội.

Kết quả nghiên cứu năm 2011 của một công ty chuyên về điều tra xã hội học trong lĩnh vực in-tơ-nét cho thấy, hơn 95% số người truy cập in-tơ-nét để đọc thông tin, chủ yếu thông qua các website tổng hợp và các mạng xã hội (MXH); và một tỷ lệ tương tự sử dụng công cụ tìm kiếm thông tin khi sử dụng in-tơ-nét. Theo đó, nhu cầu tìm kiếm và sử dụng thông tin là nhu cầu chủ đạo của người dùng in-tơ-nét. Ðiều đó cho thấy, in-tơ-nét đã trở thành phương tiện truyền thông rất quan trọng, thậm chí đang từng bước lấn át các phương tiện truyền thông, nhất là đối với báo, tạp chí in. Hơn nữa, những số liệu thống kê không chính thức cuối năm 2011 cũng cho thấy, các website truyền thông xã hội chiếm đến 80% trong số 10 website có số lượng người dùng thường xuyên lớn nhất ở Việt Nam.

Về bản chất công nghệ, in-tơ-nét là môi trường mở, cho phép người sử dụng được tự do cung cấp, tìm kiếm và sử dụng thông tin. Vì vậy, tùy thuộc vào động cơ, mục đích và nhận thức của cá nhân, tổ chức sử dụng mà thông tin đưa lên in-tơ-nét là tích cực, hoặc tiêu cực, hoặc thậm chí đi ngược lại lợi ích chính đáng của cộng đồng, xã hội. Ngày nay, bên cạnh những tác động tích cực nhiều mặt thúc đẩy sự phát triển xã hội, trên in-tơ-nét cũng tồn tại đầy rẫy những thông tin sai trái, độc hại với các tính chất khác nhau, bao gồm: Thông tin không phù hợp về chuẩn mực đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục như kích động dâm ô đồi trụy, kích động tình dục, bạo lực, bôi nhọ đời tư, vu khống... Thông tin sai trái, độc hại có tính chất tội phạm tin học: sai phạm về lừa đảo trên mạng, đánh cắp thông tin, mật khẩu, phát tán vi-rút... Thông tin sai trái có tính chất chính trị: Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước, đe dọa an ninh quốc gia.

Số liệu thống kê người dùng in-tơ-nét cuối năm 2011 của Google cho thấy, trong số 10 website có số lượng người dùng nhiều nhất tại Việt Nam, thì đứng đầu là 4 website truyền thông xã hội, sau đó mới đến các website truyền thông chính thống. Vì vậy, truyền thông xã hội đang ngày càng thu hút đông đảo người dùng in-tơ-nét, nhất là trong những năm gần đây, và đang có sự dịch chuyển thói quen tìm kiếm thông tin từ các website thông tin chính thống sang các website truyền thông xã hội, nhất là các trang thông tin điện tử tổng hợp. Bên cạnh những ưu thế, truyền thông xã hội cũng có thể hiện những mặt trái, đó là: Thông tin không chính thống, mang tính cá nhân, thiếu chọn lọc, dàn trải, vụn vặt; khó xác định nguồn tin, khó kiểm chứng; có động cơ, mục đích không rõ ràng hoặc động cơ xấu nhằm mục đích xuyên tạc, lừa đảo, vu khống.

Vì vậy, truyền thông xã hội khi được sử dụng vào các mục đích lừa đảo, vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích chính đáng của cộng đồng, xã hội, đe dọa an ninh quốc gia thì hậu quả cũng vô cùng lớn, nhất là khi người sử dụng đa số là giới trẻ, còn thiếu bản lĩnh, tỉnh táo khi tiếp nhận thông tin trên in-tơ-nét.

Thực trạng và một số bất cập trong công tác quản lý


Nhận thức được sự phát triển mạnh mẽ của nội dung thông tin trên in-tơ-nét với những đặc thù rất phức tạp về công nghệ kỹ thuật toàn cầu, trong những năm gần đây, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp cùng các bộ, ngành liên quan tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với thông tin trên in-tơ-nét. Tuy nhiên, trên thực tế in-tơ-nét đang thể hiện ngày càng rõ nét đặc trưng của một xã hội ảo, phản ánh ngày càng toàn diện các hoạt động của đời sống thật ở mức độ tự do hơn cho mỗi cá thể, phức tạp hơn cho công tác quản lý. Mặc dù vậy, bên cạnh sự vào cuộc quyết liệt của Bộ Thông tin và Truyền thông cùng với Bộ Công an, nhận thức về trách nhiệm và sự phối hợp của các bộ, ngành khác còn nhiều hạn chế.

In-tơ-nét là lĩnh vực đặc thù có sự phát triển nhanh, mạnh, gắn liền với sự phát triển của thế giới. Vì vậy, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quản lý lĩnh vực này cũng đòi hỏi phải được bổ sung, điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp với sự phát triển và yêu cầu quản lý. Ðến nay hệ thống văn bản điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc cung cấp, sử dụng thông tin trên in-tơ-nét đã được bổ sung, hoàn thiện đáng kể. Tuy nhiên hệ thống các văn bản về quản lý nội dung thông tin điện tử trên in-tơ-nét vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu các quy định cụ thể để phân định rõ ràng, chính xác các hành vi vi phạm pháp luật. Việc xây dựng quy định, chính sách chưa theo kịp sự phát triển.

Vấn đề khó khăn trong việc áp dụng chính sách pháp luật là do tính chất không biên giới của in-tơ-nét. Một hành vi trên in-tơ-nét có thể vi phạm pháp luật của một nước, nhưng lại là được phép ở một quốc gia khác, vì vậy việc xử lý vi phạm, yêu cầu gỡ bỏ thông tin sai trái trên môi trường mạng cũng bị giới hạn, chỉ có tác dụng nhất định khi người vi phạm, hành vi vi phạm xảy ra ở quốc gia đó.

Hiện nay, việc xác định và xử lý công khai nội dung sai phạm vẫn do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, chủ yếu dựa vào các quy định định tính, chưa cụ thể về hành vi sai phạm, của văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên quan. Vì vậy, việc đưa ra quyết định của cơ quan chức năng hay bị cho là có tính áp đặt chủ quan, không khách quan. Nhiều trường hợp bị lợi dụng kích động, gây khó khăn cho việc tạo sự đồng thuận của dư luận xã hội; tạo ra áp lực lớn cho cơ quan chức năng, nhất là đối với những thông tin nhạy cảm về chính trị, đối ngoại... mà dư luận quốc tế đang quan tâm.

Vì vậy trong nhiều trường hợp, các đơn vị thực thi còn khó khăn khi quyết định hình thức xử lý, nhiều trường hợp không dám công khai biện pháp xử lý do có yếu tố nhạy cảm, nên chưa đề cao tính răn đe. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý sai phạm tuy đã được tăng cường nhưng năng lực bộ máy thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn hạn chế, rất thiếu về số lượng thanh tra chuyên ngành; năng lực kỹ thuật xử lý, ngăn chặn thông tin sai phạm từ các máy chủ đặt tại nước ngoài còn nhiều bất cập. Chế tài xử lý chưa đủ mạnh, chưa đạt được hiệu quả răn đe cần thiết.

Trên thực tế, nguồn phát tán thông tin sai phạm chủ yếu là từ các máy chủ nước ngoài nhằm tránh sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, không điều chỉnh bằng các biện pháp hành chính được; trong khi các biện pháp ngăn chặn kỹ thuật mới chỉ tập trung đối với những thông tin sai phạm về an ninh chính trị, còn đối với những sai phạm thông tin khác chưa có điều kiện quan tâm đúng mức.

Hệ thống các giải pháp


Do tính mở của công nghệ, tính hai mặt của thông tin trên in-tơ-nét và do nhu cầu tất yếu sử dụng dịch vụ và nội dung thông tin trên in-tơ-nét, các giải pháp quản lý phải hướng tới việc phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của in-tơ-nét; các biện pháp cấm đoán cực đoan bằng hành chính và kỹ thuật chỉ mang lại hiệu quả hạn chế. Vì vậy, chính sách quản lý phải là sự kết hợp đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, bao gồm cả giải pháp hành chính, giải pháp kỹ thuật và giải pháp tuyên truyền giáo dục, trong đó tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của người sử dụng in-tơ-nét là giải pháp thường xuyên, liên tục, lâu dài và đóng vai trò chủ đạo để người dùng in-tơ-nét từng bước thích ứng một cách tích cực với môi trường mạng, biết sàng lọc thông tin xấu, tiếp nhận thông tin hữu ích. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm môi trường pháp lý rõ ràng, công khai, minh bạch và bình đẳng cho mọi đơn vị, cá nhân cung cấp và sử dụng thông tin in-tơ-nét trên lãnh thổ Việt Nam. Rà soát và sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả các văn bản hiện có phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Xây dựng các văn bản mới phù hợp với xu thế phát triển và yêu cầu công tác quản lý nhà nước. Nghiên cứu đề xuất, đàm phán các cơ chế phối hợp giữa các quốc gia trong việc quản lý các dịch vụ thông tin xuyên biên giới, phù hợp với các cam kết quốc tế và yêu cầu hội nhập. Cần phải tạo ra nhiều dịch vụ hấp dẫn, lành mạnh về thông tin và giải trí để thu hút người sử dụng trong nước, giảm thiểu tác động tiêu cực của thông tin xấu. Do môi trường pháp lý không bình đẳng về quản lý nội dung thông tin trên in-tơ-nét giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, dịch vụ in-tơ-nét của các doanh nghiệp Việt Nam không thu hút được người dùng Việt Nam như dịch vụ của các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, cần có cơ chế đặc thù khuyến khích phát triển một số dịch vụ in-tơ-nét quan trọng để thu hút người dùng Việt Nam; tập trung phát triển các dịch vụ quan trọng nhất như mạng xã hội, công cụ tìm kiếm và các dịch vụ giải trí trực tuyến.

Nâng cao năng lực bộ máy quản lý nhà nước về tổ chức bộ máy, về nguồn nhân lực, về cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại bảo đảm triển khai có hiệu quả các biện pháp quản lý về cả hành chính và kỹ thuật để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các sai phạm theo pháp luật.

Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng là nhóm giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài nhằm nâng cao dân trí một cách toàn diện, để mỗi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên có ý thức tự bảo vệ mình và trở thành bộ lọc thông tin, hướng dẫn những người chung quanh nhận biết, sàng lọc các thông tin xấu, thông tin độc hại. Nhóm giải pháp này đòi hỏi phải xây dựng một đề án thông tin riêng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, đời sống, trình độ nhận thức và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, bảo đảm tính đa dạng, hấp dẫn, đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan chức năng với các tổ chức, đoàn thể, giữa gia đình và nhà trường, giữa ý thức cá nhân với các phong trào mang tính cộng đồng hướng tới một văn hóa in-tơ-nét lành mạnh, đóng góp ngày càng tích cực và hiệu quả vào sự phát triển của toàn xã hội.

Nguồn: hvcsnd.edu.vn

Related

Bài thảo luận 5211876634332991890

Post a Comment Bình luận mặc định

emo-but-icon

Video

Xúc động bộ ảnh về cặp đôi chia tay khi vẫn còn yêu

Dòng thời gian

item